Loét do tì đè thường phát sinh ở những người phải nằm lâu do tai biến, tai nạn, hoặc sau các ca phẫu thuật lớn như phẫu thuật gãy xương đùi. Vậy phân loại loét do tì đè như thế nào?
Điều dưỡng viên hướng dẫn phân loại loét do tì đè
Điều dưỡng viên chia sẻ kiến thức về loét do tì đè
Cử nhân Văn bằng 2 Cao đẳng Điều dưỡng tại Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur chia sẻ: Loét do tì đè là một dạng loét da phát sinh do kém dinh dưỡng ở một hoặc nhiều vùng da trên cơ thể, thường xuất hiện ở những bệnh nhân nặng phải nằm lâu, đặc biệt là khi họ không thay đổi tư thế, không được xoa bóp thường xuyên tại những vùng bị tì đè. Trọng lượng của cơ thể tạo áp lực lên vùng da đó, gây ra sự suy giảm hoặc ngưng lưu thông của mạch máu, gây thiếu dinh dưỡng. Đồng thời, máu tĩnh mạch bị ứ lại, dẫn đến việc da bị sung huyết và cuối cùng làm hỏng da, tạo thành loét.
Những trường hợp như vậy thường xảy ra ở những người phải nằm dài do bị tai biến, tê liệt, sau các phẫu thuật, đặc biệt là người cao tuổi yếu đuối và ít được chăm sóc. Ở những trường hợp này, việc không tự chủ về việc di chuyển hoặc sử dụng vải trải giường không phẳng, đệm nước hoặc đệm khí mà không có lớp vải trải đệm, hoặc nằm trên giường cứng không có đệm hoặc đệm không phù hợp, cũng làm tăng nguy cơ phát triển loét da.
Các vị trí dễ bị loét tì đè
Các vị trí dễ bị loét tì đè ở người cao tuổi thường là những điểm có xương lồi lên mà không có đủ lượng mỡ bảo vệ hoặc mỡ bảo vệ quá ít, như vùng sau gáy, giữa hai mông, vai, khuỷu tay và gót chân. Khi người bệnh nằm nghiêng, có thể xuất hiện loét ở vùng bên ngoài lồng ngực, cả hai bên của đầu gối, và mắt cá chân (phụ thuộc vào vị trí nghiêng của cơ thể). Trong trường hợp người bệnh phải ngồi hoặc nửa nằm nửa ngồi do suy hô hấp, vùng ụ ngồi xương chậu cũng dễ bị loét.
Biểu hiện của loét tì đè
Giảng viên Cao đẳng Y Dược TP.HCM – Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur chia sẻ: Biểu hiện của loét tì đè thường bao gồm các dấu hiệu như sau:
- Vùng da bị tì đè sẽ thể hiện dấu hiệu đỏ, sung huyết, và có thể gây đau đớn. Tuy nhiên, ở người cao tuổi hoặc người lú lẫn, họ có thể không cảm nhận được đau.
- Tại vùng da bị tì đè, có thể xuất hiện các nốt phồng lên giống như bị bỏng. Khi những nốt phồng này vỡ ra, da ở vùng đó có thể chuyển từ màu đỏ bầm hoặc xanh nhạt đến đen.
- Nếu không được chăm sóc cẩn thận, vết loét tì đè này có thể bị nhiễm vi khuẩn hoặc nấm, dẫn đến sự phát triển nhanh chóng và khó điều trị, đặc biệt là khi bị nhiễm vi khuẩn có độc lực mạnh và kháng nhiều loại kháng sinh như tụ cầu vàng hoặc trực khuẩn mủ xanh.
- Dựa vào mức độ tổn thương của da và mô dưới da tại vùng tì đè, loét tì đè được phân loại thành 4 giai đoạn khác nhau từ nhẹ đến nặng:
- Độ I: Da vẫn còn nguyên, vết đỏ không biến mất sau khi ngừng áp lực hoặc chạm vào. Có thể gặp đau, cứng hoặc mềm hơn bình thường, hoặc không có triệu chứng gì.
- Độ II: Tổn thương bề mặt lớp dưới da, vùng thương màu đỏ hoặc hồng, không có tế bào chết màu vàng đục. Những tổn thương dạng bọng nước hoặc màu trắng có thể nổi lên dưới vùng da bị loét.
- Độ III: Tổn thương nặng hơn, mất toàn bộ lớp da và mô dưới da. Có thể xuất hiện tổ chức dưới da hoại tử màu vàng đục nhưng không gây tổn thương sâu vào cơ bắp, nhưng có thể tạo ra đường hầm hoặc lỗ rò.
- Độ IV: Là loại loét tì đè nặng nhất, mất toàn bộ mô da và mô dưới da, làm lộ rõ cơ bắp, xương hoặc gân cơ và dây chằng. Tổ chức hoại tử có thể màu vàng đục hoặc khô đen, và có thể xuất hiện đường hầm hoặc lỗ rò. Nếu vùng da bị loét quá nặng, mất toàn bộ phần da và mô dưới da, thì sẽ rất khó xác định được mức độ tổn thương.
Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur tuyển sinh Cao đẳng Điều dưỡng chính quy
Nguyên tắc điều trị loét tì đè
Nguyên tắc điều trị loét tì đè là một phần quan trọng trong việc giảm thiểu thời gian nằm viện, giảm chi phí điều trị, và cải thiện thời gian chăm sóc cho những bệnh nhân nằm lâu, liệt, hoặc ít vận động. Điều quan trọng là phải điều trị kịp thời và đúng cách để tránh nguy cơ tử vong cao.
Điều dưỡng viên tại các trường Cao đẳng Y Dược Hà Nội cho hay: Việc điều trị loét tì đè cần được thực hiện càng sớm càng tốt và tuân thủ theo chỉ định của bác sĩ. Điều trị bao gồm sử dụng các loại thuốc được bác sĩ chỉ định, như Sanyrene, kháng sinh, nội tiết tố, tia cực tím, nước biển, men, đường, mỡ y học, bột xốp, axít tanic, axít boric, và nhiều loại khác. Người nhà không nên tự ý sử dụng thuốc mà không có sự hướng dẫn của bác sĩ hoặc mua thuốc mà không được chỉ định.
Ngoài ra, việc cắt lọc vết loét cũng có thể được thực hiện nếu cần thiết, tuy nhiên quyết định này thường phụ thuộc vào điều kiện cụ thể và chuyên môn của từng cơ sở y tế. Mục tiêu của việc cắt lọc là làm cho vết loét lành nhanh và tránh tình trạng tái phát.
Nguyên tắc chăm sóc vết loét do tì đè bao gồm việc đánh giá mức độ tổn thương và tình trạng sức khỏe tổng quát của người bệnh để lập kế hoạch chăm sóc phù hợp.
Đặc biệt, cần chăm sóc da bằng cách giữ cho da luôn khô ráo, sạch sẽ, đặc biệt là các vùng da dễ bị loét nhất. Cần đảm bảo vệ sinh tiểu, đại tiện của người bệnh để tránh vi khuẩn lan rộng ra các vùng cơ quan sinh dục, tiết niệu, và chậu hông. Việc xoa bóp cho người bệnh cần được thực hiện ít nhất 3 – 4 lần mỗi ngày, đặc biệt là tập trung vào vùng da dễ bị loét (vùng da bị tì đè). Nếu có nốt phồng, cần cố gắng ngăn chúng khỏi vỡ để tránh nguy cơ nhiễm trùng.
Thường xuyên thay đổi tư thế cho người bệnh là một phần quan trọng của chăm sóc, nên thực hiện khoảng mỗi vài giờ một lần (tốt nhất là 30 phút một lần) để giúp người bệnh thoải mái hơn. Cần đảm bảo rằng người bệnh được kê gối mềm và có độ cao phù hợp.
Vải trải giường cũng cần được giữ khô ráo, sạch sẽ, và không được gập nếp. Nếu sử dụng đệm nước hoặc đệm khí, cần đảm bảo rằng chúng được trải bằng vải sạch và không gấp nếp để tránh da bị dính vào đệm.
Cuối cùng, người nhà cần được tư vấn về chế độ ăn uống cân đối, bao gồm các chất đạm, mỡ, vitamin, và khoáng chất để hỗ trợ quá trình chữa lành và phục hồi của người bệnh.
Nguồn: yhanoi.edu.vn